Tiền lương của NLĐ bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19
04/12/2021
Với diễn biến phức tạp của dịch bệnh, nhiều NLĐ vẫn còn phải làm việc tại nhà, tạm nghỉ việc hoặc có những NLĐ trở thành F1, F2 phải đi cách ly hoặc cách ly tại nhà. Vậy trong những trường hợp này, tiền lương của NLĐ được tính như thế nào?
1. Doanh nghiệp cho NLĐ ngừng việc để phòng dịch
Căn cứ tại khoản 3 Điều 99 Bộ Luật lao động 2019 quy định rõ:
Điều 99. Tiền lương ngừng việc
3. Nếu vì sự cố về điện, nước mà không do lỗi của người sử dụng lao động hoặc do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh nguy hiểm, địch họa, di dời địa điểm hoạt động theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc vì lý do kinh tế thì hai bên thỏa thuận về tiền lương ngừng việc như sau:
a) Trường hợp ngừng việc từ 14 ngày làm việc trở xuống thì tiền lương ngừng việc được thỏa thuận không thấp hơn mức lương tối thiểu;
b) Trường hợp phải ngừng việc trên 14 ngày làm việc thì tiền lương ngừng việc do hai bên thỏa thuận nhưng phải bảo đảm tiền lương ngừng việc trong 14 ngày đầu tiên không thấp hơn mức lương tối thiểu.
Theo đó, doanh nghiệp cho NLĐ ngừng việc để phòng, chống dịch thuộc trường hợp ngừng việc do dịch bệnh nguy hiểm. Do đó, tiền lương ngừng việc vủa NLĐ sẽ được 02 bên thỏa thuận nhưng vẫn phải đảm bảo các quy định:
- Ngừng việc từ 14 ngày làm việc trở xuống thì tiền lương ngừng việc được thỏa thuận không thấp hơn mức lương tối thiểu;
- Ngừng việc trên 14 ngày làm việc thì tiền lương ngừng việc do hai bên thỏa thuận nhưng phải bảo đảm tiền lương ngừng việc trong 14 ngày đầu tiên không thấp hơn mức lương tối thiểu.
Trong đó, mức lương tối thiểu vùng được quy định theo Nghị định 90/2019/NĐ-CP như sau:
- Mức 4.420.000 đồng/tháng, áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng I.
- Mức 3.920.000 đồng/tháng, áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng II.
- Mức 3.430.000 đồng/tháng, áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng III.
- Mức 3.070.000 đồng/tháng, áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng IV.
Như vậy, bất kì người lao động nào tạm nghỉ/ngừng việc theo yêu cầu của doanh nghiệp để đảm bảo công tác phòng chống dịch thì vẫn được hưởng lương.
2. NLĐ phải cách ly tập trung hay cách ly tại nhà
Việc trở thành F1, F2 trong thời điểm hiện tại rất phổ biến, khi đó, những người này bắt buộc phải ngừng công việc đang làm để thực hiện cách ly theo yêu cầu của cơ quan y tế. Đồng thời, tiền lương ngừng việc của họ sẽ được hướng dẫn theo Công văn 1064/LĐTBXH-QHLĐTL, người lao động phải ngừng việc trong thời gian thực hiện cách ly theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền thì tiền lương của người lao động trong thời gian ngừng việc thực hiện theo khoản 3 Điều 98 BLLĐ năm 2012.
Tuy nhiên BLLĐ năm 2012 đã hết hiệu lực và được thay thế bằng BLLĐ năm 2019. Theo đó, người lao động trong thời gian cách ly sẽ được đảm bảo tiền lương ngừng việc theo quy định về ngừng việc tại khoản 3 Điều 99 BLLĐ năm 2019 như sau:
- Trong 14 ngày ngừng việc đầu tiên: Trả lương theo thỏa thuận nhưng không thấp hơn mức lương tối thiểu.
- Sau 14 ngày: Tiền lương ngừng việc do các bên tự thỏa thuận.
3. Doanh nghiệp cho NLĐ làm việc tại nhà
Tránh trường hợp tập trung, tiếp xúc nơi đông người nhưng vẫn muốn duy trì tiến độ công việc, hầu như các doanh nghiệp vẫn cho NLĐ làm việc tại nhà. Nhiều nơi, khi cho NLĐ làm việc tại nhà, NSDLĐ chỉ chi trả 80% hay 50% lương mà không phải 100%. Vậy những doanh nghiệp đó có làm đúng như quy định pháp luật không?
Theo nguyên tắc trả lương được quy định tại khoản 1 Điều 94 BLLĐ 2019 quy định “Người sử dụng lao động phải trả lương trực tiếp, đầy đủ, đúng hạn cho người lao động. Trường hợp người lao động không thể nhận lương trực tiếp thì người sử dụng lao động có thể trả lương cho người được người lao động ủy quyền hợp pháp.”
Theo đó, tiền lương là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động theo thỏa thuận để thực hiện công việc, bao gồm mức lương theo công việc hoặc chức danh, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác (khoản 1 Điều 90 BLLĐ năm 2019).
Như vậy, khi NLĐ làm việc tại nhà nhưng vẫn hoàn thành công việc được giao thì NLĐ vẫn được hưởng lương theo thỏa thuận. Tuy nhiên, trong trường hợp dịch bệnh đang diễn ra và chưa biết khi nào dừng lại, đồng thời để giảm bớt áp lực kinh tế, pháp luật cho phép doanh nghiệp có thể giảm tiền lương của người lao động trong 02 trường hợp sau:
- Thỏa thuận sửa đổi hợp đồng lao động:
Trên nguyên tắc, HĐLĐ được thỏa thuận giữa 02 bên. Do đó, NSDLĐ vó thể thỏa thuận với NLĐ về việc sửa đổi các nội dung liên quan đến hợp đồng, trong đó có vấn đề liên quan đến tiền lương.
Như vậy, trường hợp được sự đồng ý của NLĐ thì NSDLĐ có thể giảm tiền lương. Mức giảm sẽ do các bên tự thỏa thuận, nhưng mức lương người lao động được nhận sau khi giảm vẫn phải đảm bảo không thấp hơn mức lương tối thiểu.
- Chuyển NLĐ làm việc khác so với hợp đồng:
Theo khoản 1 Điều 29 BLLĐ quy định:
Điều 29. Chuyển người lao động làm công việc khác so với hợp đồng lao động
1. Khi gặp khó khăn đột xuất do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh nguy hiểm, áp dụng biện pháp ngăn ngừa, khắc phục tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, sự cố điện, nước hoặc do nhu cầu sản xuất, kinh doanh thì người sử dụng lao động được quyền tạm thời chuyển người lao động làm công việc khác so với hợp đồng lao động nhưng không được quá 60 ngày làm việc cộng dồn trong 01 năm; trường hợp chuyển người lao động làm công việc khác so với hợp đồng lao động quá 60 ngày làm việc cộng dồn trong 01 năm thì chỉ được thực hiện khi người lao động đồng ý bằng văn bản.
Đồng thời, khoản 3 cũng quy định khi NLĐ chuyển công việc sẽ được trả lương như sau:
3. Người lao động chuyển sang làm công việc khác so với hợp đồng lao động được trả lương theo công việc mới. Nếu tiền lương của công việc mới thấp hơn tiền lương của công việc cũ thì được giữ nguyên tiền lương của công việc cũ trong thời hạn 30 ngày làm việc. Tiền lương theo công việc mới ít nhất phải bằng 85% tiền lương của công việc cũ nhưng không thấp hơn mức lương tối thiểu.
Như vậy, khi chuyển NLĐ làm việc khác, DN có thể trả ít lương hơn trước đó nhưng phải đảm bảo giữ nguyên mức lương cũ trong 30 ngày làm việc và tiền lương công việc mới phải bằng ít nhất 85% lương cũ và không thấp hơn mức lương tối thiểu.