Đến ngày 15/12/2023, hợp đồng lao động sẽ hết hạn và tôi nghỉ việc. Nhưng tôi còn dư 08 ngày phép năm 2023; vậy công ty có phải trả tiền cho những ngày đó? 
Trường hợp người lao động nghỉ việc khi còn dư ngày phép năm được Bộ luật Lao động 2019 quy định cụ thể như sau:

1. Hết hạn hợp đồng nhưng còn dư ngày phép năm 2023 có được trả tiền không?
Căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 113 Bộ luật Lao động 2019, người lao động trong trường hợp do thôi việc, bị mất việc làm mà chưa nghỉ hằng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm thì được người sử dụng lao động thanh toán tiền lương cho những ngày chưa nghỉ.

Vì vậy, đối với trường hợp hợp đồng hết hạn và người lao động nghỉ việc, nhưng còn dư 08 ngày phép năm 2023 thì công ty phải trả tiền 08 ngày phép năm chưa nghỉ cho người lao động.

2. Tiền lương dùng làm căn cứ trả cho người lao động những ngày chưa nghỉ hết phép năm
Căn cứ khoản 3 Điều 67 Nghị định 145/2020/NĐ-CP thì tiền lương được dùng để làm căn cứ trả cho người lao động những ngày chưa nghỉ hằng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm là số tiền lương theo hợp đồng lao động của tháng trước liền kề tháng người lao động thôi việc, bị mất việc làm.

Như vậy, đến ngày 15/12/2023, hợp đồng lao động sẽ hết hạn và người lao động nghỉ việc; nhưng người lao động còn dư 08 ngày phép năm 2023 thì tiền lương được dùng để làm căn cứ trả cho người lao động 08 ngày chưa nghỉ phép năm sẽ là tiền lương của tháng 11/2023.

Ví dụ: Giả sử tháng 12/2023 bạn nghỉ việc, trong tháng 11/2023 có 22 ngày làm việc, tiền lương tháng 11/2023 của bạn là 11.000.000 đồng (làm đủ tháng), thì số tiền mà người sử dụng lao động phải trả đối với 08 ngày phép năm còn dư của bạn sẽ là: (11.000.000 : 22) x 8 = 4.000.000 đồng.

3. Người lao động có được cộng dồn phép năm để nghỉ một lần không?
Căn cứ tại khoản 4 Điều 113 Bộ luật Lao động 2019, người sử dụng lao động có trách nhiệm quy định lịch nghỉ hằng năm sau khi tham khảo ý kiến của người lao động và phải thông báo trước cho người lao động biết. Người lao động có thể thỏa thuận với người sử dụng lao động để nghỉ hằng năm thành nhiều lần hoặc nghỉ gộp tối đa 03 năm một lần.

Như vậy, theo quy định trên, người lao động có thể cộng dồn phép năm để nghỉ một lần trong trường hợp thỏa thuận có thỏa thuận với người sử dụng lao động và việc cộng dồn phép năm để nghỉ một lần không được nghỉ gộp quá mức tối đa 03 năm một lần.

Điều 107. Làm thêm giờ - Bộ luật Lao động 2019

1. Thời gian làm thêm giờ là khoảng thời gian làm việc ngoài thời giờ làm việc bình thường theo quy định của pháp luật, thỏa ước lao động tập thể hoặc nội quy lao động.

2. Người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm giờ khi đáp ứng đầy đủ các yêu cầu sau đây:

a) Phải được sự đồng ý của người lao động;

b) Bảo đảm số giờ làm thêm của người lao động không quá 50% số giờ làm việc bình thường trong 01 ngày; trường hợp áp dụng quy định thời giờ làm việc bình thường theo tuần thì tổng số giờ làm việc bình thường và số giờ làm thêm không quá 12 giờ trong 01 ngày; không quá 40 giờ trong 01 tháng;

c) Bảo đảm số giờ làm thêm của người lao động không quá 200 giờ trong 01 năm, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này.

3. Người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm không quá 300 giờ trong 01 năm trong một số ngành, nghề, công việc hoặc trường hợp sau đây:

a) Sản xuất, gia công xuất khẩu sản phẩm hàng dệt, may, da, giày, điện, điện tử, chế biến nông, lâm, diêm nghiệp, thủy sản;

b) Sản xuất, cung cấp điện, viễn thông, lọc dầu; cấp, thoát nước;

c) Trường hợp giải quyết công việc đòi hỏi lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao mà thị trường lao động không cung ứng đầy đủ, kịp thời;

d) Trường hợp phải giải quyết công việc cấp bách, không thể trì hoãn do tính chất thời vụ, thời điểm của nguyên liệu, sản phẩm hoặc để giải quyết công việc phát sinh do yếu tố khách quan không dự liệu trước, do hậu quả thời tiết, thiên tai, hỏa hoạn, địch họa, thiếu điện, thiếu nguyên liệu, sự cố kỹ thuật của dây chuyền sản xuất;

đ) Trường hợp khác do Chính phủ quy định.

4. Khi tổ chức làm thêm giờ theo quy định tại khoản 3 Điều này, người sử dụng lao động phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan chuyên môn về lao động thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

5. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.